Doanh nghiệp được chậm trả lương trong trường hợp nào?
Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý của BLLĐ năm 2019. Theo trang Luatvietnam, nội dung này được ghi nhận tại khoản 3 Điều 97 như sau: Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày;…
Trong khi đó, khoản 2 Điều 24 Nghị 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn BLLĐ năm 2012 quy định: Trường hợp đặc biệt do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng thời hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động, thì không được trả chậm quá 1 tháng.
Ảnh minh họa |
Như vậy, từ năm 2021, BLLĐ năm 2019 đã gộp lại chỉ còn 1 trường hợp người sử dụng lao động được phép chậm lương của người lao động ,đó là vì lý do bất khả kháng mà đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn.
Hiện tại, BLLĐ năm 2019 và các văn bản hướng dẫn vẫn chưa có quy định cụ thể giải thích về lý do bất khả kháng, nhưng theo tinh thần của quy định trước đây, doanh nghiệp được chậm lương nếu do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, địch họa hoặc di dời, thu hẹp sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trường hợp để xác định chính xác lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động được phép chậm lương từ năm 2021 cần chờ văn bản hướng dẫn của Chính phủ.
Chậm lương 15 ngày, được tính thêm lãi ngân hàng
Khoản 3 Điều 97 BLLĐ năm 2019 quy định: Nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền, ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.
Như vậy, từ năm 2021, việc tính lãi chậm lương toàn bộ sẽ được áp dụng theo mức lãi của ngân hàng mà doanh nghiệp mở tài khoản trả lương cho người lao động. Quy định này sẽ đem lại cho người lao động thêm một khoản lợi, bởi lãi suất của các ngân hàng mà người lao động chọn mở tài khoản trả lương thường cao hơn so với Ngân hàng nhà nước.
Chậm trả lương, doanh nghiệp bị phạt đến 100 triệu đồng
Theo khoản 2 Điều 16 Nghị định 28/2020/NĐ-CP, tùy thuộc vào số lượng người lao động bị trả lương không đúng hạn mà người sử dụng lao động sẽ bị xử phạt hành chính theo các mức sau:
- Từ 5 - 10 triệu đồng: Vi phạm từ 1 - 10 người lao động;
- Từ 10 - 20 triệu đồng: Vi phạm từ 11 - 50 người lao động;
- Từ 20 - 30 triệu đồng: Vi phạm từ 51 - 100 người lao động;
- Từ 30 - 40 triệu đồng: Vi phạm từ 101 - 300 người lao động;
- Từ 40 - 50 triệu đồng: Vi phạm từ 301 người lao động trở lên.
Ngoài ra, người sử dụng lao động còn bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc phải trả đủ tiền lương cộng với khoản tiền lãi của số tiền lương chậm trả cho người lao động, tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt.
Mức phạt này được áp dụng cho người sử dụng lao động là cá nhân. Với người sử dụng lao động là tổ chức thì phạt gấp đôi mức trên theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 28. Như vậy, doanh nghiệp có thể bị phạt lên đến 100 triệu đồng nếu chậm lương của người lao động.
(Tổng hợp)