Người lao động được đền bù tiền khi bị chậm trả lương
Theo trang luatvietnam, nguyên tắc trả lương tại Điều 94 Bộ luật Lao động 2019 nêu rõ, người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho NLĐ.
Tuy nhiên, trường hợp vì lý do bất khả kháng mà NSDLĐ đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì áp dụng theo khoản 4 Điều 97 như sau:
- Không được trả chậm quá 30 ngày.
- Nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì NSDLĐ phải đền bù cho NLĐ một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.
Ảnh minh họa |
Hiện nay, tại Điều 96 Bộ luật Lao động 2012 được hướng dẫn bởi Điều 24 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP), số tiền trả thêm được quy định như sau:
Nếu thời gian trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng số tiền trả chậm nhân với lãi suất trần huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương. Khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không quy định trần lãi suất thì được tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng của ngân hàng thương mại, nơi doanh nghiệp, cơ quan mở tài khoản giao dịch thông báo tại thời điểm trả lương.
Căn cứ theo Điều 96 Bộ luật Lao động 2012 được hướng dẫn bởi Điều 24 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP), số tiền trả thêm được quy định như sau:
Nếu thời gian trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng số tiền trả chậm nhân với lãi suất trần huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương. Khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không quy định trần lãi suất thì được tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng của ngân hàng thương mại, nơi doanh nghiệp, cơ quan mở tài khoản giao dịch thông báo tại thời điểm trả lương.
Như vậy, theo quy định mới tại Bộ luật Lao động 2019, nếu NSDLĐ trả chậm lương từ 15 ngày trở lên thì NLĐ có thể nhận được một khoản đền bù ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm.
Về quyền của người lao động khi không được trả lương đúng hạn, theo Khoản 2 Điều 35 BLLĐ 2019, thì người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước nếu không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 97 BLLĐ 2019. Trong khi đó theo quy định hiện hành, với trường hợp này, người lao động phải báo trước 3 ngày.
Về quy định ứng lương
Theo BLLĐ 2019, người lao động được tạm ứng tiền lương theo điều kiện do hai bên thỏa thuận và không bị tính lãi.
Ngoài ra, trường hợp hưởng lương theo sản phẩm, theo khoán mà công việc phải làm trong nhiều tháng; nghỉ hàng năm; tạm đình chỉ công việc…người lao động được tạm ứng lương.
Về nguyên tắc trả lương
Tại Điều 94 BLLĐ 2019 bổ sung quy định người sử dụng lao động không được hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động.
Mặt khác, người sử dụng lao động cũng không được ép buộc người lao động chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ định.
Đặc biệt, từ 1/1/2021, người lao động được nhận bảng kê trả lương mỗi lần nhận lương, trong đó ghi rõ tiền lương, tiền lương làm thêm giờ, tiền lương làm việc vào ban đêm, nội dung và số tiền bị khấu trừ (nếu có).
(Tổng hợp)