• :
  • :
Chi tiết tin tức
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Luật sư cãi trắng án cho chỉ huy vụ thảm sát Mỹ Lai qua đời

F.Lee Bailey, người từng bào chữa trắng án cho Ernest Medina - chỉ huy đại đội Charlie gây ra vụ...

F. Lee Bailey - luật sư hình sự nổi tiếng nước Mỹ - được xác nhận  đã qua đời ngày 3/6 tại thành phố Atlanta (Mỹ). Những vụ án nổi tiếng của ông này có thể kể đến vụ bào chữa cho Patricia Hearst - cháu gái cưng của trùm truyền thông George Hearst, O.J Simpson - VĐV bóng bầu dục, Ernest Medina - chỉ huy đại đội Charlie gây ra vụ thảm sát Mỹ Lai... 

Những vụ án của Bailey luôn tận dụng được truyền thông và kéo người ta vào hố sâu của sự mập mờ. Thậm chí, Baileys còn khiến người ta quan tâm vì tạo ra được những drama giật gân quanh vụ án, như trong các bộ phim truyền hình.

Luật sư F. Lee Bailey trong phiên xét xử của O.J.Simpson 1995 (Ảnh: Ted SoquiSygma, via Getty Images)
Luật sư F. Lee Bailey trong phiên xét xử của O.J.Simpson 1995 (Ảnh: Ted SoquiSygma, via Getty Images)

Dù vậy, không phải lúc nào ông ta cũng chiến thắng. Ông không thể giúp Patty Hearst, cháu gái cưng của của đế chế truyền thông George Hearst, thoát cảnh tù tội hoàn toàn với tội danh cướp ngân hàng. Ông dường như cũng thất bại trong phiên biện hộ điên rồ cho kẻ đã thú tội Albert DeSalvo trong vụ án nổi tiếng Boston Strangler khi không thể giúp kẻ này thoát khỏi sự miệt thị từ những dẫn chứng trên tòa. Ông ta cũng không thể biện hộ cho chính mình và từng ngồi tù, sau đó bị tước bằng hành nghề vào năm 2001 do tham ô hàng triệu đô la.

Năm 1971, luật sư Bailey bào chữa cho Đại úy Ernest L. Medina trong phiên tòa xét xử về một trong những tội ác tàn bạo nhất trong Chiến tranh Việt Nam, vụ thảm sát 504 dân làng Mỹ Lai (Sơn Mỹ, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi). 

Các tài liệu cho thấy, sáng ngày 16/3/1968, Đại đội Charlie đổ bộ vào làng thôn Mỹ Lai. Lục quân Hoa Kỳ đã thảm sát tàn bạo 504 người dân không vũ khí, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em.  Medina - Chỉ huy đại đội Charilie khi đó -  bị cáo buộc giết hại một phụ nữ và cho quân tàn sát dân làng. L. Bailey cho rằng thân chủ mình bắn người phụ nữ do “phản ứng bản năng trên chiến trường” và không hề biết rằng lính của mình mất kiểm soát đến khi quá muộn.

Trong số 26 người lính bị buộc tội trong vụ thảm sát, chỉ có Trung úy William Calley, một trung đội trưởng, bị kết tội giết người với án chung thân (Sau đó Calley được ân xá, thụ án hơn 3 năm quản thúc tại gia và biệt giam tại doanh trại). Mặc dù Williams Calley đã tuyên bố mình chỉ làm theo mệnh lệnh của Medina nhưng trong phiên tòa, Medina phủ nhận việc ra lệnh thảm sát, và được tuyên trắng án ở tất cả các lời buộc tội. Medina chỉ thừa nhận việc che giấu các bằng chứng một thời gian sau khi phiên toà kết thúc. 

Năm 1966, ông Bailey được chú ý khi thành công đảo ngược tội danh giết người của bác sĩ chỉnh hình ở Ohio có tên Sam Sheppard. Bác sĩ Sheppard bị cáo buộc tội danh giết vợ vào năm 1954 nhưng kiên quyết khẳng định ông bị đánh bất tỉnh khi vật lộn với kẻ giết người sau khi trở về thấy xác vợ. Ở phiên xét xử lần thứ nhất, Sam bị tuyên án chung thân. Với lý do ban bồi thẩm đã buộc tội thiếu công bằng trước những dư luận giật gân, Tòa án tối cao Mỹ ra quyết định xử lại vụ án. Lần này, Bailey đã thành công trong việc phủ nhận tính trung thực của những nhân chứng. Vị bác sĩ được trắng án, và ông Bailey được ca ngợi trên tờ New York Times là “ngôi sao sáng nhất trong lĩnh vực luật hình sự”. Vụ án chính là cảm hứng cho series truyền hình và bộ phim “The Fugitive”. 

Bác sĩ Sam Sheppard (bên trái) và ông Bailey trong buổi hội thảo tại Cleveland năm 1965 (Ảnh: AP)
Bác sĩ Sam Sheppard (bên trái) và ông Bailey trong buổi hội thảo tại Cleveland năm 1965 (Ảnh: AP)

Sau vụ án bác sĩ Sheppard, ông Bailey được gọi tới bệnh viện Bridgewater State Hospital, nơi điều trị của những tội phạm tinh dục và tâm thần. Albert DeSalvo, một bệnh nhân, đã thú tội với ông rằng hắn ta chính là “Sát thủ bóp cổ Boston”, biệt danh của kẻ đã hãm hiếp và giết hại 13 phụ nữ từ năm 1962 đến 1964, và có vẻ đưa ra những tình tiết mà chỉ kẻ giết người mới biết. DeSalvo đối mặt với tội cưỡng hiếp và hành hung, và Bailey đã đồng ý đại diện cho hắn ta.

Tại phiên tòa năm 1967, ông mạo hiểm và nhận định lời thú tội, cố gắng chỉ ra rằng thân chủ của mình bị tâm thần, nhưng thẩm phán không chấp nhận, và DeSalvo bị kết án, nhận định là tỉnh táo và chịu chung thân trong tù. “Bang Massachusetts vừa thiêu thêm một phù thủy nữa”, ông nói khi ấy.

Hơn 40 năm sau, những nghi vấn về vụ án vẫn khiến các chuyên gia pháp lý cho rằng thủ phạm thực sự không phải là DeSalvo. Không hề có bằng chứng về lời thú tội của tên này, và bản thân DeSalvo cũng bị giết hại trong tù bởi một bệnh nhân khác vào năm 1973.

Đến năm 2013, DNA được tìm thấy trong nhà nạn nhân cuối cùng của tên giết người, Mary Sullivan, được lưu giữ lâu năm đã trùng khớp với DNA được lấy từ chai nước của người cháu trai của DeSalvo. Trên cơ sở liên kết DNA giữa chú và cháu, thi thể DeSalvo được khai quật để kiểm chứng. Kết quả không chứng minh được DeSalvo là sát nhân mà chỉ có thể cho rằng hắn có thể là người giết nạn nhân Sullivan.

Ông Bailey năm 1975 trong phiên xét xử của  Patricia Hearst (Ảnh:AP)
Ông Bailey năm 1975 trong phiên xét xử của  Patricia Hearst (Ảnh:AP)

Năm 1976 Bailey nhận bào chữa cho Patricia Hearst, chụp ảnh cùng những kẻ bắt cóc là thành viên quân giải phóng Symbionese (SLA) trong một vụ cướp nhà băng năm 1974 tại San Francisco. Lập luận Bailey đưa ra là cô gái này đã bị tẩy não và đi theo kẻ bắt cóc để cứu bản thân. Ông cho gọi 71 nhân chứng, nhưng cuối cùng cháu gái trùm truyền thông Geogre Hearst vẫn bị bị kết án và vtù 22 tháng. Cô đã kiện ông Bailey vì không đủ năng lực nhưng rồi rút lại đơn kiện sau khi được Tổng thống Jimmy Carter giảm án.

Năm 1995, ông Bailey là một trong các thành viên của Dream Team tham gia bào chữa cho ngôi sao bóng bầu dục O.J. Simpson khỏi tội danh giết vợ, Nicole, và bạn của vợ là Ronald L. Goldman. Quá trình đối chất giữa Bailey với thám tử Mark Fuhrman được xem là chìa khóa vụ án. Vị thám tử thừa nhận không có lệnh khám xét khi tìm ra bằng chứng quan trọng tại nhà Simpson, gồm một chiếc găng tay dính máu khớp với chiếc bị bỏ lại tại hiện trường. Bên luật sư biện hộ không chứng minh được việc  Fuhrman cố tình gài chiếc găng tay này để đổ tội cho ông Simpson. Tuy nhiên, Bailey đã thành công trong việc lập luận rằng Fuhrman đã dùng ngôn ngữ phân biệt chủng tộc, điều này tác động tới các công tố viên.

Ông Bailey đã viết một bộ sách, hầu hết là các tài liệu pháp lý, là người dẫn trong một chương trình truyền hình ABC có tên “Good Company” năm 1967, và thường xuất hiện trên các talk show và diễn thuyết. Ông cũng kể lại những vụ án của mình trong các cuốn sách bán chạy nhất như cuốn “The Defense Never Rests: the Art of Cross-Examination” (xuất bản năm 1971) hay “For the Defense” (xuất bản năm 1975).

Bailey trao đổi với Simpson trong phiên tòa năm 1995 (Ảnh: Reed Saxon)
Bailey trao đổi với Simpson trong phiên tòa năm 1995 (Ảnh: Reed Saxon)

Francis Lee Bailey sinh ngày 10/6/1933, tại Waltham, Massachusetts (Mỹ), là con trưởng trong số 3 người con của một nhân viên bán quảng cáo trên mạng với một giáo viên mẫu giáo tên  Grace Bailey Mitchell. Ông tốt nghiệp năm 1950 tại Học viện Kimball Union tại Meriden, New Hampshire (Mỹ), sau đó đăng ký học tại Harvard nhưng bỏ học sau 2 năm để gia nhập Hải quân. Ông chuyển sang Thủy quân lục chiến và trở thành một phi công chiến đấu và một sĩ quan đại diện cho quân đội trên tòa án, dù không được đào tạo về pháp lý.

Sau khi ra quân năm 1956, Bailey đăng ký học tại trường luật Đại học Boston. Với kinh nghiệm của mình, ông được miễn yêu cầu đầu vào và tốt nghiệp thủ khoa năm 1960. 

Bailey kết hôn 4 lần. Ông ta thường mang một khẩu súng lục trong chiếc bao da trên vai, yêu du thuyền và thích lái chiếc máy bay phản lực của mình tới các vụ án và cuộc họp trên khắp đất nước. Ông sở hữu một doanh nghiệp sản xuất trực thăng tại Michigan. Năm 1968, ông giúp thành lập Tổ chức kiểm soát không lưu chuyên nghiệp, hiệp hội này đã bị Tổng thống Mỹ Ronald Reagan giải thể sau một cuộc đình công năm 1981.

Ông Bailey năm 2014 (Ảnh: AP)
Ông Bailey năm 2014 (Ảnh: AP)

Một quán bar tại Massachusetts từng chỉ trích ông Bailey khi tự quảng bá bản thân, còn New Jersey đã cấm ông có mặt tại các tòa án trong một năm vì sự khinh thường của ông. Thế nhưng rắc rối tồi tệ nhất của ông là tại Florida vào năm 1996. Ông bị tạm giam vì tội thiếu tôn trọng tòa án khi từ chối giao nộp khoản phí có được khi biện hộ cho một kẻ buôn ma túy và những hàng hóa còn lại trong bản giao kèo bởi khách hàng bị cầm tù của mình. Tòa án liên bang cho biết kẻ buôn thuốc bị tước đoạt hết tài sản trong một vụ thỏa thuận năm 1994 và đòi ông Bailey phải trả lại. Sau 43 ngày trong tù, ông phải trả khối tài sản trị giá hàng triệu đô.

Năm 2001, tòa án cấp cao tại Florida đã tước bỏ bằng luật sư của ông với tội danh chiếm đoạt tài sản.

Năm 2013, yêu cầu hành nghề luật của Bailey tại Maine bị tiểu bang từ chối với lý do ông không chứng minh được bản thân có sự trung thực và liêm chính cần thiết. Đến năm 2016, Bailey nộp đơn phá sản tại Maine khi nợ hơn 5 triệu đô tiền thuế và có tài sản tối thiểu là căn hộ tại thị trấn Yarmouth với khoản thế chấp là 365.000 đô.

TM (theo newyorktimes)

Tin nên đọc

Tin cùng chuyên mục

Chưa có bài viết nào

Tin mới nhất

ĐỌC NHIỀU NHẤT

Tin nổi bật