• :
  • :
Chi tiết tin tức
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Phía sau chiến dịch Mỹ tìm cách ‘hất cẳng’ Trung Quốc khỏi chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu?

Apple, Google và những gã khổng lồ công nghệ đang chuyển dịch sản xuất để chuẩn bị cho...

Một buổi sáng mùa hè nóng nực ở Đài Bắc (Đài Loan), một số quan chức của Viện Hoa Kỳ và đại sứ quán Hoa Kỳ đã đến thăm lãnh đạo cấp cao một công ty công nghệ lớn, nhà cung cấp chính cho Apple . Chuyến thăm này không giống các cuộc xã giao trước đây. Lần này, họ đưa ra một câu hỏi thẳng thừng ngay  khi ngồi xuống: "Tại sao bạn không chuyển dịch năng lực sản xuất của mình ra ngoài Trung Quốc ?".

Những người tham gia cuộc trò chuyện mô tả không khí của cuộc nói chuyện là "nghiêm trọng và đáng lo ngại."

"Họ hỏi nhiều câu hỏi mà chúng tôi không biết liệu chúng tôi có thể trả lời hay không. Câu trả lời sẽ liên quan đến các chiến lược nội bộ của công ty và khách hàng". Nhưng thông điệp rất rõ ràng: “Chính phủ Mỹ đang trực tiếp kêu gọi công ty của chúng tôi cắt đứt quan hệ với Trung Quốc”, ông nói.

Các quan chức Mỹ cũng gặp một số nhà sản xuất chip hàng đầu của Đài Loan, những công ty đã tạo ra các sản phẩm cho Huawei Technologies, nhà cung cấp thiết bị viễn thông Trung Quốc mà Washington cáo buộc làm gián điệp cho Bắc Kinh. Theo một nguồn tin của Nikkei Asia, những cuộc gặp gỡ này nhằm lôi kéo các công ty công nghệ đứng về phía Hoa Kỳ trong cuộc chiến đang leo thang giữa Washington và Bắc Kinh.

Khởi đầu của cuộc chiến 

Cuộc chiến bắt đầu năm 2016, với các lệnh trừng phạt chống lại công ty thiết bị viễn thông ZTE, và ngày càng nghiêm trọng hơn khi Washington gia tăng sức ép đối với các công ty Trung Quốc, mà theo họ là đe dọa an ninh quốc gia Mỹ.

Trong vòng một năm, Washington đã sửa đổi các quy tắc kiểm soát xuất khẩu ba lần, để nhắm vào Huawei. Những thay đổi này ảnh hưởng đến các nhà cung cấp công nghệ cho công ty Trung Quốc, dù có phải ở Mỹ hay không. 

Màn hình hiển thị logo của Huawei phía sau Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo trong một cuộc họp báo vào tháng Bảy. Ảnh: AP
Màn hình hiển thị logo của Huawei phía sau Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo trong một cuộc họp báo vào tháng Bảy. Ảnh: AP

Trong hai năm qua, chính quyền Trump đã “tăng tốc” đưa các công ty Trung Quốc vào danh sách đen, bổ sung thêm khoảng 70 công ty và tổ chức trong năm nay.

Alex Capri, một nhà nghiên cứu tại Quỹ Hinrich, có trụ sở tại Singapore, cho biết: “Washington đã 'vũ khí hóa' các chuỗi cung ứng công nghệ trong chất bán dẫn, để làm chậm lại tham vọng công nghệ của Trung Quốc”. Ông nói, Mỹ đang nhắm tới mục tiêu "đàn áp mô hình độc quyền công nghệ của Bắc Kinh".

Các CEO ở Đài Loan hiểu thông điệp này là khẩn cấp: Di chuyển các cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc, giảm quan hệ với các khách hàng Trung Quốc như Huawei, và sát cánh với Mỹ, hoặc đối mặt với tình huống xấu nhất có thể là trở thành mục tiêu tiếp theo của Washington.

"Tiến thoái lưỡng nan"

Trong 3 năm qua, các công ty như Apple, Google dần rút lui khỏi Trung Quốc để đến Việt Nam , Ấn Độ , Thái Lan và Malaysia. Đối với ngành công nghệ toàn cầu, câu hỏi đặt ra là liệu chuỗi cung ứng mới này có hiệu quả như chuỗi cung ứng đã sản xuất hơn 200 triệu chiếc iPhone mỗi năm ở Trung Quốc hay không.

Đài Loan đang ở một vị trí quan trọng để chứng kiến ​​chính sách mới này của Mỹ, vì các công ty công nghệ của họ “bán bình đẳng” cho cả hai bên. Các công ty Đài Loan là khách hàng của những “gã khổng lồ công nghệ” Mỹ như Apple, Microsoft, Google, Amazon, Qualcomm, Hewlett-Packard và Dell, cũng như các công ty hàng đầu của Trung Quốc như Huawei, Lenovo, Xiaomi, Alibaba Group Holding và Oppo. 

Đứng giữa ranh giới Trung Quốc và Mỹ, các công ty của Đài Loan buộc phải lựa chọn bên nào, mặc dù không muốn.

"Đây là một thời đại khó hiểu. Ngành công nghệ trong nhiều thập kỷ qua chưa bao giờ phải chú ý đến các yếu tố chính trị quốc tế như bây giờ", Tung Tzu-hsien - Chủ tịch Pegatron, nhà cung cấp chính của Apple, phát biểu trên một diễn đàn ở Đài Bắc gần đây.

Tháng trước, Mỹ đã công khai lặp lại thông điệp riêng của mình, rằng tất cả các nhà cung cấp công nghệ nước ngoài nên rời khỏi Trung Quốc.

Ngày 4/9, Giám đốc AIT - Brent Christensen, đã tổ chức một diễn đàn về tái cấu trúc chuỗi cung ứng, cùng với các đối tác EU, Canada và Nhật Bản, để công khai ủng hộ việc tách rời. Đây là lần đầu tiên Mỹ tổ chức một sự kiện như vậy ở Đài Loan, một “vùng xám” ngoại giao không có đại sứ quán Mỹ chính thức.

Giám đốc Brent Christensen của Viện Hoa Kỳ tại diễn đàn ngày 4/9 về tái cấu trúc chuỗi cung ứng ở Đài Bắc. Ảnh: Reuters
Giám đốc Brent Christensen của Viện Hoa Kỳ tại diễn đàn ngày 4/9 về tái cấu trúc chuỗi cung ứng ở Đài Bắc. Ảnh: Reuters

Brent Christensen nói các công ty quốc tế "ngày càng nhận ra mối nguy hiểm của việc gắn kết tương lai của họ với Trung Quốc", và đã bắt đầu tìm kiếm các trung tâm sản xuất và chế tạo thay thế ngoài Trung Quốc. Ông kêu gọi các quốc gia hợp tác xây dựng lại chuỗi cung ứng ở những nơi khác. 

Nhưng điều này không hề đơn giản đối với các công ty công nghệ, nơi mà Trung Quốc không chỉ là cơ sở sản xuất lâu năm, mà còn là thị trường phát triển nhanh nhất của họ. 20% tổng doanh thu của Apple, hơn 20% doanh thu của Intel và 60% doanh thu của “vua chip di động” Qualcomm đều đến từ Trung Quốc, dù trong nhiều trường hợp, các mặt hàng bán ở Trung Quốc sau đó được tái xuất sang các thị trường khác.

Một số công ty lớn đang cố gắng hết sức để vượt qua khoảng cách ngày càng rộng giữa Bắc Kinh và Washington, trong nỗ lực tránh chọn một bên. Apple đã áp dụng chiến lược “hai mặt” để tự cân bằng. Dù thúc đẩy các nhà cung cấp đẩy nhanh sự chuyển dịch khỏi Trung Quốc từ cuối năm 2018, Apple cũng tích cực thúc đẩy các nhà cung cấp của Trung Quốc xây dựng thị trường nội địa, để đảm bảo quyền tiếp cận liên tục của mình vào thị trường mạnh 1,4 tỷ dân.

Với sự đồng ý của Apple, Wistron của Đài Loan đã bán nhà máy lắp ráp iPhone ở thành phố Côn Sơn, Trung Quốc cho “đối thủ địa phương” Luxshare Precision Industry. Việc bàn giao này có ý nghĩa quan trọng. Mở đường cho nhà cung cấp Trung Quốc phát triển chuỗi cung ứng của Apple, đồng thời thúc đẩy nó sánh ngang với Foxconn của Đài Loan, một gã khổng lồ về sản xuất công nghệ. 

Vào tháng 8, Lens Technology của Trung Quốc cũng mua các nhà máy sản xuất vỏ iPhone từ Catcher Technology của Đài Loan, một nhà cung cấp vỏ kim loại lâu năm của Apple, tại thành phố Taizhou.

Foxconn đã chuyển một phần sản xuất ra khỏi Trung Quốc, nhưng khẳng định sẽ không chọn bên nào. "Chúng tôi luôn lên kế hoạch để phục vụ cả hai thị trường", Young Liu, Chủ tịch Foxconn Technology Group, phát biểu tại hội nghị nhà đầu tư ở Đài Bắc vào tháng 8.

Nhưng không phải công ty nào cũng có đủ nguồn lực để vượt qua như Apple và Foxconns. Thực tế là, các nhà phát triển chip vẫn dựa vào một số nhà cung cấp công cụ thiết kế và sản xuất chip quan trọng của Mỹ, như Applied Materials, Lam Research, KLA, Synopsys và Cadence Design Systems, để tạo ra những con chip tiên tiến nhất có thể.

Điều này buộc tất cả các nhà cung cấp chip trên thế giới phải xin giấy phép từ Mỹ để giao hàng cho Huawei, lệnh có hiệu lực vào ngày 15/9. Kể từ đó, các công ty cung cấp công nghệ đã rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”, có thể hứng chịu cơn thịnh nộ của một trong hai chính phủ.

Một nhà cung cấp công nghệ nói với Nikkei rằng, họ đang nhận được nhiều yêu cầu gặp gỡ từ các quan chức Trung Quốc "để uống trà". Và trong các cuộc họp đó, quan chức sẽ tìm kiếm sự đảm bảo không có kế hoạch rút lui, hoặc cắt giảm việc làm.

Một số nhà cung cấp được yêu cầu thành lập văn phòng do Đảng Cộng sản Trung Quốc điều hành trong khu liên hợp sản xuất của họ. Đây là những dấu hiệu cho thấy, các nhà chức trách muốn theo dõi chuyển động của các nhà cung cấp, để ngăn chặn bất kỳ “cuộc di cư” ồ ạt nào. 

Ngày 19/9/2020, Trung Quốc cũng tạo phiên bản “danh sách đen” thương mại của riêng mình, được gọi là "Danh sách thực thể không đáng tin cậy". Danh sách này dành cho bất kỳ công ty nước ngoài nào đối xử không công bằng với công ty Trung Quốc, theo phán quyết của chính phủ. 

Mặc dù vẫn chưa có công ty nào bị đưa vào danh sách đen, nhưng Global Times, tờ báo được nhà nước Trung Quốc ủng hộ, cho biết Apple, Qualcomm, Cisco Systems và Boeing có thể sẽ được thêm vào “danh sách đen” này.

Một CEO nói rằng họ đã âm thầm xử lý một số tài sản ở Trung Quốc, và lấy tiền ra khỏi đất nước này để đầu tư vào Đông Nam Á. "Chúng tôi lo lắng tài sản ở Trung Quốc một ngày nào đó có thể trở thành con tin, nếu căng thẳng Mỹ-Trung Quốc tiếp tục xấu đi", ông nói.

“Hành trình di cư” khỏi Trung Quốc

Một kỷ nguyên về công nghệ đang có dấu hiệu kết thúc. Trước đây, một sản phẩm có thể được thiết kế ở phương Tây và sản xuất tại Trung Quốc, mang lại sự tối ưu về chi phí, chất lượng, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng. Nhưng giờ đây, ngành công nghệ phải đối mặt với thực tế mới: ngày càng phụ thuộc vào chuỗi cung ứng phân tán, phi tập trung đang nổi lên ở Đông Nam Á.

Ngành công nghiệp đã bắt đầu một “cuộc di cư” chưa từng thấy trong hai đến ba thập kỷ. Theo số liệu của các chính phủ, khoảng 2.000 công ty Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc trong tất cả các lĩnh vực - bao gồm nhiều nhà cung cấp công nghệ chính - đã có kế hoạch chuyển dịch sản xuất khỏi Trung Quốc. 

Các công ty công nghệ, đặc biệt là nhà cung cấp mang thương hiệu Mỹ như Apple, đang xem xét chuyển từ 15% đến 30% tổng sản lượng của họ ra khỏi Trung Quốc, và yêu cầu các nhà cung cấp châu Á của họ hỗ trợ kế hoạch chuyển dịch thời gian tới.

Nhật Bản đã khởi động một chương trình trợ cấp 220 tỷ yên (2,08 tỷ USD) để khuyến khích các công ty đưa ngành sản xuất về nước, và phân bổ thêm 23,5 tỷ yên để tài trợ chuyển sản xuất sang Đông Nam Á.

Tính đến tháng 7 năm nay, khoảng 90 công ty Nhật Bản đã được phê duyệt trợ cấp, hơn 1.600 công ty đã nộp đơn xin trợ cấp. Đài Loan đã thực hiện chiến dịch "chuyển sản xuất trở lại Đài Loan" với việc giảm thuế và lãi suất cho vay đặc biệt, kể từ cuối năm 2018.

Apple cũng bắt đầu sản xuất hàng loạt AirPods không dây tại Việt Nam từ đầu 2020 và có kế hoạch mang nhiều sản phẩm hơn đến quốc gia Đông Nam Á. Trong khi năm ngoái, tất cả các sản phẩm tương tự của Apple đều sản xuất ở Trung Quốc. 

Apple cũng yêu cầu các nhà lắp ráp iPhone chính, là Foxconn và Wistron, mở rộng năng lực sản xuất ở Ấn Độ, đồng thời thúc đẩy một nhà cung cấp chủ chốt khác là Pegatron, nhanh chóng xây dựng cơ sở ở đó vào mùa hè này.

Một người đi xe đạp ngang qua nhà máy sản xuất điện thoại thông minh hiện đã đóng cửa của Samsung Telecom Technology ở thành phố Thiên Tân (Trung Quốc). Ảnh: AP
Một người đi xe đạp ngang qua nhà máy sản xuất điện thoại thông minh hiện đã đóng cửa của Samsung Telecom Technology ở thành phố Thiên Tân (Trung Quốc). Ảnh: AP

Năm 2019, Samsung Electronics đóng cửa các cơ sở lắp ráp điện thoại thông minh cuối cùng ở Trung Quốc để chuyển toàn bộ trọng tâm sang Việt Nam và Ấn Độ. Việc sản xuất máy chủ cho các trung tâm dữ liệu của Google, Amazon và Facebook đã chuyển sang Đài Loan, trong khi hai năm trước, tất cả các máy chủ như vậy đều được sản xuất tại Trung Quốc.

"Trong 2-3 năm tới, không chỉ những nhà lắp ráp điện tử lớn mà còn có nhiều nhà cung cấp linh kiện chuyển ra ngoài Trung Quốc, để hỗ trợ chuỗi cung ứng mới ", một CEO nhà cung cấp iPhone cho biết.

Sự bùng phát bất ngờ của COVID-19 càng thúc đẩy các nhà cung cấp công nghệ tăng cường phòng ngừa các rủi ro, khi dồn tất cả nguồn lực vào một khu vực duy nhất. Trong khi đó, lo ngại về gián điệp nước ngoài gia tăng đã khiến thái độ của mọi người trở nên cứng rắn và chống lại các công ty công nghệ Trung Quốc.

Một người quản lý tại Alpha Networks có trụ sở tại Đài Loan, nhà cung cấp thiết bị định tuyến, bộ chuyển mạch và thiết bị mạng, nói với Nikkei: "Năm ngoái, khi chúng tôi thảo luận với các khách hàng Hoa Kỳ, câu hỏi đầu tiên của họ là: “Bạn có cung cấp các lựa chọn 'ngoài Trung Quốc ', đặc biệt là đối với những sản phẩm sẽ đi vào mạng không dây di động? "

Kết quả là Alpha Networks bắt đầu giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc về mặt sản xuất. "Những khách hàng người Mỹ cho rằng, sẽ không an toàn nếu những sản phẩm này được sản xuất tại Trung Quốc".

Đối với các công ty như Acter Group - một công ty xây dựng cơ sở vật chất cho Google và các nhà cung cấp chính của Apple như Pegatron, Wistron cùng nhiều công ty khác, việc mở rộng chuỗi cung ứng công nghệ ở Đông Nam Á đã trở thành cơ hội để tăng trưởng vượt bậc. 

Lai Ming-kun, Tổng giám đốc Acter, cho biết: “Chúng tôi nhận thấy các dự án trong tương lai của chúng tôi, từ các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan và Indonesia đang tăng lên rất nhiều”.

Một hành trình tốn kém

Tuy nhiên, chi phí để rời Trung Quốc là rất lớn. Đất nước này vẫn là sự kết hợp tuyệt vời giữa hạ tầng được tổ chức tốt, nguồn lao động có tay nghề cao mà không quốc gia nào có thể sánh kịp, khả năng huy động hàng trăm nghìn công nhân và giao linh kiện trong một giờ chỉ với một cuộc điện thoại.

Nghiên cứu của Bank of America Securities cho thấy, thời gian để các sản phẩm lên kệ tại các cửa hàng ở Mỹ có thể mất tới 40 ngày từ Thái Lan, gần gấp đôi so với Trung Quốc.

Maurice Lee, một CEO của Unimicron Technologies, nhà sản xuất bảng mạch in chủ chốt, cho biết việc chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc vẫn còn nhiều khó khăn đối với công ty của ông và các công ty khác. 

Tung Tzu-hsien, Chủ tịch Pegatron, nhà cung cấp chính của Apple. Ảnh: Reuters
Tung Tzu-hsien, Chủ tịch Pegatron, nhà cung cấp chính của Apple. Ảnh: Reuters

"Ở Trung Quốc, chúng tôi có một hệ sinh thái hoàn chỉnh và rất gần với tất cả các nhà cung cấp của mình. Chuyển đến một nơi khác có nghĩa là tất cả các quy trình, công tác hậu cần cần phải được thiết kế lại, và chúng tôi phải đào tạo lại toàn bộ công nhân ”, Lee, Chủ tịch Hiệp hội vi mạch in Đài Loan, cho biết. "Điều đó đồng nghĩa với việc tăng chi phí".

"Trước đây, chỉ mất hai giờ để vận chuyển linh kiện từ các tỉnh khác nhau của Trung Quốc. Nhưng trong tương lai, sẽ mất ít nhất một đến hai tuần chờ đợi khi chuỗi cung ứng trở nên phi tập trung bên ngoài Trung Quốc. Đây là một thực tế mới mà tất cả chúng ta phải đối mặt và thích nghi”, Tung Tzu-hsien, Chủ tịch Pegatron, nói thêm.

Nhưng cũng phải nhìn nhận thực tế trước chiến tranh thương mại, một số nhà cung cấp đã tìm cách chuyển một số hoạt động sản xuất sang Đông Nam Á, trong bối cảnh chi phí gia tăng và tình trạng thiếu lao động ở Trung Quốc.

Sean Kao, nhà phân tích của IDC, cho biết nhiều công ty đã phải chịu chi phí lao động tăng cao ở Trung Quốc trong vài năm, nên họ bắt đầu dự thảo một số kế hoạch đa dạng hóa, nhưng không ai trong số họ thực hiện các kế hoạch này cho đến khi chiến tranh thương mại bắt đầu.

Kao nói: “Không có quốc gia nào có thể thay thế hoàn toàn Trung Quốc. Nhưng căng thẳng leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc, sau đó là COVID-19, đã kích hoạt tất cả các nhà cung cấp và khách hàng của họ quyết tâm chuyển ít nhất một số hoạt động sản xuất sang các nước khác, và bước ra khỏi vùng an toàn của họ. Đây là động thái mới, không thể thay đổi được”.

Khu thương mại trung tâm ở thành phố Trịnh Châu, Hà Nam được xem là
Khu thương mại trung tâm ở thành phố Trịnh Châu, Hà Nam được xem là "Thành phố iPhone" của Trung Quốc. Ảnh: AP

Kết quả không như mong đợi

Chưa đầy 1.000 ngày sau khi làn sóng thuế quan trừng phạt đầu tiên đối với hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc thực hiện vào năm 2018, một chuỗi cung ứng mới đã xuất hiện rầm rộ ở Đông Nam Á và Ấn Độ.

Nhà sản xuất Apple Watch Compal Electronics đã có đất tại Việt Nam. AirPods và nhà sản xuất điện thoại Xiaomi Inventec có cơ sở ở Malaysia; trong khi nhà lắp ráp máy tính xách tay Wistron của iPhone và Acer có nhà máy ở Philippines. Nhưng những nhà máy này, thường có quy mô nhỏ, nằm rải rác khắp Đông Nam Á và không hoạt động hết công suất.

Mô tả tình trạng các nhà máy ở Đông Nam Á vài năm trước, một giám đốc chuỗi cung ứng nói với Nikkei: “Trước đây, các nhà máy không hoạt động nên chẳng có ai ở đó cả. Chỉ có muỗi”.

Ngoài ra, lao động thiếu hiệu quả ở Đông Nam Á cũng là một thách thức mới đối với các nhà cung cấp.

Yancey Hai, Chủ tịch Delta Electronics, cho biết công ty của ông đã đưa ra kế hoạch đa dạng hóa cho cuộc chiến thương mại, nhằm mở rộng sản xuất ở Đài Loan, Thái Lan và Ấn Độ. Tuy nhiên, trong thời kỳ COVID-19 bùng phát, chính phủ Trung Quốc đã có những giải pháp phòng dịch rất hiệu quả. Đây là một trong những cách nhanh nhất giúp các nhà sản xuất tiếp tục hoạt động, với các hướng dẫn về biện pháp phòng chống vi rút trong bối cảnh đại dịch.

Trong khi đó, những người theo dõi thị trường đang chú ý đến cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới. Song ít người tin rằng, sự cạnh tranh và căng thẳng chính trị giữa Washington và Bắc Kinh sẽ giảm xuống, cho dù ai trở thành tổng thống Mỹ tiếp theo.

Martijn Rasser, thành viên cấp cao của chương trình công nghệ và an ninh quốc gia tại Trung tâm An ninh mới của Mỹ, cho biết Mỹ và Trung Quốc không có khả năng quay trở lại "mối quan hệ tốt đẹp".

NHẬT SANG

Tin nên đọc

Tin cùng chuyên mục

Chưa có bài viết nào

Tin mới nhất

ĐỌC NHIỀU NHẤT

Tin nổi bật