Tờ báo kinh doanh hàng đầu nước Đức Handelsblatt ngày 13/8 đưa tin, nhà sản xuất các sản phẩm chăm sóc cá nhân và chất kết dính Tesa với công ty con Beiersdorf muốn mở rộng sản xuất và đã chọn miền Bắc Việt Nam để đầu tư khoảng 55 triệu euro (hơn 1.500 tỷ đồng - PV) nhằm xây dựng một nhà máy rộng khoảng 70.000 m2 cho hoạt động sản xuất, dự kiến từ năm 2023.
Quyết định được đưa ra vào tháng 5/2020. Giám đốc điều hành Norman Goldberg cho biết: “Việc Tesa đầu tư vào thời điểm dịch COVID-19 là một tín hiệu mạnh mẽ cho các cổ đông trong tương lai”.
Nhà sản xuất chất kết dính nhạy áp lực Tesa muốn mở nhà máy rộng tới 70.000m2 ở Việt Nam. Ảnh: Wikimedia |
Tờ Handelsblatt nhận định, Tesa không đơn độc khi chọn Việt Nam. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành một lựa chọn phổ biến cho các công ty muốn mở rộng mạng lưới sản xuất tại châu Á.
Cuộc khủng hoảng COVID-19 càng làm đẩy mạnh xu hướng này vì tổn thất sản xuất sau khi chuỗi cung ứng toàn cầu ngừng hoạt động đã khiến các nhà quản lý nhận thức được nguy cơ khi quá phụ thuộc vào một quốc gia nào đó. Cuộc chiến thương mại nhưng sặc mùi chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc cũng thúc đẩy điều trên.
Các quốc gia Đông Nam Á nhận rõ mình có vị trí thuận lợi để hưởng lợi từ sự dịch chuyển này. Trong khi luồng hàng hóa giữa Trung Quốc với châu Âu và Mỹ sẽ giảm đáng kể trong ba năm tới, thì theo phân tích của công ty tư vấn BCG, Đông Nam Á đang ngày càng tiến sâu vào trung tâm toàn cầu hóa.
Kim ngạch thương mại của Đông Nam Á với châu Âu và Mỹ sẽ tăng hơn 20 tỷ USD mỗi nước vào cuối năm 2023. Sự luân chuyển hàng hóa giữa Đông Nam Á và Trung Quốc thậm chí dự kiến còn tăng hơn 40 tỷ USD
Vì sao lại là Việt Nam?
Theo bài báo, Việt Nam, với dân số khoảng 100 triệu người, luôn được nhiều tổ chức uy tín trao cho triển vọng đặc biệt tốt trong việc tận dụng lợi thế của sự phát triển. Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tăng trưởng kinh tế trong năm nay có thể kỳ vọng đạt gần 3%, bất chấp đại dịch COVID-1, mức này tốt hơn bất kỳ quốc gia nào khác trong khu vực. Chính phủ còn đặt mục tiêu tăng trưởng hơn 5% vì tình hình dịch bệnh vẫn còn khả quan hơn nhiều quốc gia khác trong Đông Nam Á.
Tờ Handelsblatt đánh giá, Chính phủ Việt Nam đã có “các hành động quyết đoán” trong việc kiểm soát dịch bệnh.
Tình hình dịch bệnh đang được kiểm soát giúp đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam không đình trệ. Ảnh: Tất Đạt |
Bất chấp cuộc khủng hoảng COVID-19, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới chỉ giảm nhẹ trong nửa đầu năm 2020 so với dòng vốn đặc biệt cao trong năm 2019. Tại các khu kinh tế của Việt Nam, mặt bằng cho các nhà máy mới ngày càng trở nên khan hiếm. Tại miền Nam, giá cho thuê theo mét vuông trong quý II/2020 thậm chí đã tăng 10% so với năm 2019. Tuy nhiên, TP.HCM đang kiểm soát mặt bằng giá cho các nhà đầu tư và hứa hẹn sẽ tăng gần gấp ba diện tích đất công nghiệp vào cuối năm nay.
Một lý do khiến các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng quan tâm đến Việt Nam là Hiệp định thương mại tự do dài 1.400 trang giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam (EVFTA), đã có hiệu lực từ ngày 1/8. “Đây là hiệp định thương mại toàn diện nhất mà người châu Âu từng ký kết với một thị trường mới nổi”, tờ Handelsblatt đánh giá. Trong những năm tới, nó sẽ dần dần xóa bỏ thuế quan đối với 99% hàng hóa được giao dịch. Ở Đông Nam Á, chỉ có Singapore đã ký hiệp định thương mại tự do với EU.
Các công ty châu Âu muốn sản xuất ở châu Á có thể hy vọng lợi thế về chi phí. "Chúng tôi chắc chắn rằng Việt Nam sẽ không chỉ trở nên hấp dẫn hơn với tư cách là một địa điểm đầu tư mà còn có tầm quan trọng to lớn trong việc phát triển các chuỗi cung ứng thay thế", Marko Walde, người lãnh đạo Phòng Thương mại Đức tại Việt Nam, dự đoán.
Các nhà máy nước ngoài đang phải cạnh tranh mặt bằng với thương hiệu nội địa tại Việt Nam. Ảnh: Getty |
Không chỉ mở cửa tự do thương mại đối với châu Âu, với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Việt Nam đã trở thành khu vực thương mại tự do với các nước như Nhật Bản, Canada và Mexico từ năm 2018. Việt Nam cũng đang tham gia đàm phán về Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) với Trung Quốc và Australia.
Chưa kể, tờ Handelsblatt còn phấn khích khi có nguồn tin cho rằng, một hiệp định thương mại tự do với Mỹ cũng đang được Việt Nam thảo luận.
Apple và Google đang "đặt cược" vào Việt Nam
Sự cởi mở với toàn cầu hóa của Việt Nam đã thu hút nhiều tập đoàn lớn vào tìm đến. Nhà sản xuất iPhone Apple đã chuyển khoảng 1/3 sản lượng sản xuất tai nghe không dây từ Trung Quốc sang Việt Nam. Theo Asian Nikkei Review, Google và Microsoft cũng đã đẩy nhanh kế hoạch trong năm nay để chuyển một phần sản xuất phần cứng từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Trước đó, đối với nhà sản xuất điện thoại thông minh Samsung, Việt Nam đã là địa điểm sản xuất quan trọng nhất trong nhiều năm qua khi hơn một nửa số điện thoại của nhà sản xuất Hàn Quốc này được gắn mác “made in Vietnam”.
Việc các tập đoàn quốc tế chuyển địa điểm sản xuất sang Việt Nam ngày càng nhiều giúp củng cố quyết định của Tesa. Thương hiệu này còn đưa ra lý do, các khách hàng ngày càng quan trọng của công ty từ các ngành công nghiệp điện tử và ô tô gần đây đã “định cư” ở Việt Nam cũng khiến Tesa “đứng ngồi không yên” nếu chỉ ở Trung Quốc.
Samsung đã "đóng quân" rất thành công ở Việt Nam từ rất lâu. Ảnh: Việt Nam Plus |
Ông Lê Anh Tuấn, Trưởng bộ phận nghiên cứu của công ty đầu tư Dragon Capital cho biết: “Việt Nam ngày càng được hưởng lợi từ nền kinh tế có mức đầu tư trực tiếp cao trong những năm gần đây. Những điều này sẽ làm tăng thêm khả năng cạnh tranh của đất nước với tư cách là một địa điểm sản xuất”.
Nhưng ông cũng chỉ ra những vấn đề còn tồn động nhất là cơ sở hạ tầng yếu kém. “COVID-19 đã khiến Chính phủ ưu tiên mở rộng cơ sở hạ tầng trong chương trình kích thích kinh tế của mình", ông Tuấn khẳng định. Ông tin rằng điều này sẽ làm tăng thêm tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam trong thập kỷ tới.
Các chuyên gia kinh tế cũng hy vọng sự thành công của Việt Nam trong việc đối phó với COVID-19 sẽ giúp danh tiếng của đất nước tăng cao trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Ông Tuấn nói: “Việt Nam đã chứng tỏ khả năng đối phó với các rủi ro bên ngoài mà vẫn duy trì được sự ổn định”.