Về quy định ghi tên người dự định cưới vào Giấy xác nhận tình trạng độc thân, ông Nguyễn Công Khanh - Cục trưởng Cục Hộ tịch, Quốc tịch và Chứng thực cho biết, thực chất đây không phải quy định mới, bởi vấn đề này đã thực hiện được 10 năm năm và không phát sinh khó khăn hay vướng mắc gì.
Cụ thể, tại khoản 2 Điều 10 Thông tư số 08.a/2010/TT-BTP của Bộ Tư pháp về việc ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng sổ, biểu mẫu hộ tịch đã quy định: “Trong trường hợp sử dụng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để làm thủ tục đăng ký kết hôn, thì phải ghi rõ kết hôn với ai, ở đâu”.
Mẫu giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. |
Tại khoản 5 Điều 25 Thông tư số 15/2015/TT-BTP của Bộ Tư pháp cũng quy định: “Trường hợp sử dụng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để làm thủ tục đăng ký kết hôn thì phải ghi rõ họ tên, năm sinh, giấy tờ tùy thân của người dự định kết hôn, nơi dự định làm thủ tục kết hôn”.
Do đó, quy định tại khoản 3 Điều 12 Thông tư số 04/2020 của Bộ Tư pháp sẽ có hiệu lực từ ngày 16/7/2020 chỉ là kế thừa quy định hợp lý của 2 Thông tư trước đó.
Mỗi năm có hàng triệu người yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định tại Thông tư số 08.a/2010/TT-BTP và Thông tư số 15/2015/TT-BTP.
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là loại giấy tờ được nhiều cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước yêu cầu phải nộp khi giải quyết các công việc cho người dân như: đăng ký kết hôn, giao dịch dân sự, ngân hàng, du học, du lịch, lao động....
Trong Thông tư 04/2020 đã quy định rõ hơn và yêu cầu khai đúng, sử dụng đúng mục đích cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để bảo vệ quyền lợi cho người dân, đặc biệt là phụ nữ trong quan hệ hôn nhân với người nước ngoài.
Việc phải ghi rõ thông tin của người dự định kết hôn để nhằm đề cao tính nghiêm túc, ý thức trách nhiệm của mỗi bên đối với hôn nhân vì mục tiêu “Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc” như Luật Hôn nhân và gia đình khẳng định.
Bên cạnh đó còn nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên, nhất là phụ nữ khi kết hôn với người nước ngoài. Đây cũng là cơ sở để kiểm tra, xác minh trong trường hợp người dân yêu cầu cấp lại giấy này mà không nộp lại được Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã cấp trước đó.
Việc ghi rõ thông tin của người dự định kết hôn trên Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân không làm hạn chế quyền của cá nhân, bởi giấy này chỉ xác nhận về tình trạng hôn nhân của cá nhân (là hiện tại người đó đã kết hôn hay chưa kết hôn với ai…), mà không có giá trị ràng buộc các bên phải kết hôn với nhau.
Cá nhân người được cấp Giấy xác nhận cần có trách nhiệm bảo quản, giữ gìn bí mật thông tin của mình và của những người liên quan. Còn cơ quan đăng ký hộ tịch và công chức tư pháp - hộ tịch cũng có trách nhiệm bảo vệ bí mật này theo quy định của Luật Hộ tịch và Bộ luật dân sự.
Bộ Tư Pháp đã hoàn thành cơ bản Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch dùng chung, đồng thời triển khai đến tất cả các cơ quan đăng ký hộ tịch trên cả nước. Theo đó, tình trạng hôn nhân của người dân sẽ được cập nhật và quản lý chặt chẽ trên hệ thống.
Việc khai thác tình trạng hôn nhân (để giải quyết thủ tục hành chính) sẽ không chỉ do cơ quan đăng ký hộ tịch, mà còn do cơ quan thực hiện thủ tục hành chính tiến hành thông qua việc kết nối, chia sẻ, khai thác dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Đồng thời có thể Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân trong thành phần hồ sơ của các thủ tục hành chính.