Nới về vaccine Nano Covax, trao đổi với Zing, GS Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu di truyền dịch tễ học và loãng xương thuộc Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Giám đốc Trung tâm Công nghệ Y tế, Đại học Công nghệ Sydney, Australia nói: "Tôi chỉ nói theo kinh nghiệm thiết kế nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng. Theo tôi, con số cỡ mẫu (số tình nguyện viên) 13.000 người là thấp so với các nghiên cứu về hiệu quả vaccine của Trung Quốc, Nga, Mỹ, Anh, Đức… Các thử nghiệm lâm sàng do Công ty Pfizer, AstraZenaca, Moderna, Johnson & Johnson và thậm chí Nga đều có số cỡ mẫu trên 23.000 người.
Do đó, tôi không rõ tính toán đằng sau thử nghiệm vaccine ở Việt Nam vì sao có số cỡ mẫu thấp như vậy. Dĩ nhiên, nhóm nghiên cứu có lý do, nhưng chúng ta không biết có hợp lý khoa học hay không".
Ông cho rằng hiệu quả vaccine càng cao, số tình nguyện viên càng thấp. Ngược lại, nếu hiệu quả vaccine thấp, số tình nguyện viên phải nhiều để kết quả nghiên cứu có thể tin cậy được. Tính trung bình, các vaccine khác đang dùng có hiệu quả từ 70% đến 95%.
Vì hiệu quả của vaccine có thể dao động theo quần thể nghiên cứu, nên một yếu tố quan trọng khác là tham số liên quan dao động giữa các mẫu, tạm gọi là RW. Chúng ta cần RW càng thấp càng tốt.
"Tuy nhiên, RW thấp quá sẽ khó có thể có đủ tình nguyện viên, còn cao quá thì kết quả có độ bất định cao. Do đó, tôi lấy con RW tương đối chấp nhận được là 0,3.
Tỷ lệ dương tính giả là khi kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thống kê, nhưng trong thực tế vaccine không có hiệu quả. Thông thường, thử nghiệm lâm sàng xác định giá trị này thấp, từ 1 đến 5%. Tỷ lệ âm tính giả là khi kết quả nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê, nhưng vaccine trong thực tế có hiệu quả. Thường, thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 xác định tỷ lệ này là từ 10% đến 20%.
Với các tham số trên, tôi ước tính rằng với hiệu quả là 70%, thì số cỡ mẫu cần thiết lên đến 27.093 người.
Nhóm nghiên cứu vaccine Nano Covax xác định cỡ mẫu 13.000 người. Tôi cũng đã làm một phân tích mô phỏng nếu nghiên cứu trên 13.000 người và kết quả cho thấy xác suất dương tính giả có thể lên đến 61%. Nói cách khác, kết quả nghiên cứu kết luận rằng vaccine có hiệu quả thì kết luận đó có xác suất sai sót là 61%".
Ông nhấn mạnh: "Tôi chưa thấy công bố khoa học trên một tập san khoa học có bình duyệt nào nên rất khó để nói về con số đó. Nếu cho rằng những phản ứng đó phản ánh độ an toàn, tôi nghĩ vaccine nào cũng không thể đạt con số 100%. Bởi chắc chắn có một số tình nguyện viên cảm thấy đau cơ, đau chỗ tiêm và bị sốt một thời gian ngắn.
Ngay cả con số 99,4% cũng rất khó nói. Bởi thông thường, người ta đo các chỉ số như Immunoglobulin (IgG) để đánh giá khả năng miễn dịch. Chỉ số này là một biến số liên tục (đơn vị mg/dL). Vì vậy, tôi không hiểu con số 99,4% có nghĩa là gì. Nhưng ngay cả IgG cũng không được FDA khuyến cáo dùng làm chỉ số để đánh giá miễn dịch từ vaccine.
Rất có thể người ta đo chỉ số Seroconversion (chuyển đảo huyết thanh) vốn phản ảnh sự phản ứng của hệ miễn dịch. Khi Seroconversion là dương tính, điều này có nghĩa hệ miễn dịch phản ứng trước một “chất lạ” (hay một vi sinh vật) xâm nhập cơ thể. Đa số chúng ta đều có hệ miễn dịch phản ứng nhạy đối với Seroconversion khi bất cứ một vi sinh vật nào xâm nhập cơ thể".
Do đó, khi Seroconversion đạt 99,4%, chúng cũng không nói lên nhiều, nếu không có nhóm chứng (nhóm không tiêm vaccine) để so sánh. Hơn thế, kết quả xét nghiệm Seroconversion còn phụ thuộc vào liều lượng của vaccine và thời gian tiêm. Khó nói con số 99,4% đạt được ở thời điểm nào. Ngay cả xét nghiệm Seroconversion cũng không thể xác định được bệnh nhân đạt được khả năng miễn dịch".
"Theo tôi, vấn đề không hẳn là thời gian thử nghiệm hay bao nhiêu tình nguyện viên. Vấn đề chúng ta cần quan tâm là thời gian có đủ để ghi nhận số ca nhiễm trong nhóm được tiêm vaccine và nhóm chứng.
Nếu số ca nhiễm thấp, nghiên cứu không có đủ độ nhạy thống kê để kiểm định được vaccine có hiệu quả hay không. Giả sử nghiên cứu trên 13.000 người và nếu tỷ lệ nhiễm là 0,005 (chỉ là ước tính từ các nghiên cứu trước) thì nghiên cứu ghi nhận khoảng 65 người bị nhiễm.
Trong các nghiên cứu vaccine trước đây (Pfizer, AstraZeneca, Moderna) số ca nhiễm thường phải hơn 100 mới đủ độ nhạy thống kê cho phân tích hiệu quả vaccine", ông chia sẻ.